0984 216 682

Bản án số 412/2022/HNGĐ-ST “về không công nhận quan hệ mẹ con”

1. Tóm tắt bản án ly hôn số 412/2022/HNGĐ-ST “về không công nhận quan hệ mẹ con”

Nguyên đơn:

1. Ông Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1953. Hộ khẩu thường trú tại: Tổ 9 phường TT, quận HA, thành phố Hải Phòng.

2. Bà Nguyễn Thị Ngọc L, sinh năm 1956. Hộ khẩu thường trú tại: Tổ 7 phường TT, quận HA, thành phố Hải Phòng.

3. Bà Nguyễn Thị Ngọc V, sinh năm 1958. Hộ khẩu thường trú tại: Xóm 7 thôn KH, xã VC, huyện HĐ, thành phố Hà Nội. Hiện ở tại: Số nhà 11 ngõ 46 QN, tổ 1, phường TH, quận CG, thành phố Hà Nội.

Ông H, bà L và bà V ủy quyền cho: Bà Đinh Thị N1 và ông Nguyễn Văn T1. Địa chỉ: Phòng 1202, sảnh B, tòa nhà L, số 164 KDT, phường NC, quận TX, thành phố Hà Nội. (theo Giấy ủy quyền ngày 25/05/2021 tại Văn phòng Công chứng VTT). (Có mặt)

Bị đơn: Bà Triệu Thị Thanh T, sinh năm 1972. Có hộ khẩu thường trú và ở tại: Số 35 ngõ 5 LH, phường TC, quận BĐ, thành phố Hà Nội. (Bà T có đơn xin xét xử vắng mặt).

Bà T ủy quyền cho ông Vũ Hoàng Nhật T2, sinh năm 1995 theo Số công chứng 3141 Quyển số 09/2021 TP/CC-SCC/HĐGD. (ông T2 có mặt)

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn:

1. Ông Hoàng Văn H1 – Luật sư;

2. Bà Nguyễn Thị Y – Luật sư;

3. Bà Hoàng Thị D – Luật sư. Thuộc văn phòng Luật sư HH – Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội. Địa chỉ: P202, Tòa nhà N đường LVL, phường NC, quận TX, thành phố Hà Nội. (vắng mặt).

Cấp xét xử sơ thẩm: Tòa án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội

Nội dung vụ án:

Năm 1999, ông G đăng ký kết hôn với bà Nguyễn Thu H1 tại UBND phường ĐX, quận HK, thành phố Hà Nội. Đến năm 2010, ông G và bà H1 đã ly hôn theo Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 24/2010/HNGĐ-PT ngày 05/03/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. Trong bản án này đã xác định ông G không có con chung. Kể từ sau thời điểm ly hôn với bà H1 cho tới khi qua đời, ông G không có đăng ký kết hôn với ai.

Năm 2014, ông G đã xác định được bản thân có một người con trai là cháu Nguyễn Như Thiện N, sinh ngày 04/12/2014 tại Bệnh viện Quốc tế G. Tại thời điểm cháu N được sinh ra, ông G không đăng ký kết hôn với ai, vì muốn tiến hành đăng ký khai sinh cho cháu N, ông G đã nhờ bà Triệu Thị Thanh T tiến hành đứng tên trên các giấy tờ hồ sơ như sổ khám thai, hồ sơ sinh nở, giấy chứng sinh tại Bệnh viện Quốc tế G, làm cơ sở để thực hiện việc đăng ký và đứng tên là mẹ cho cháu Nguyễn Như Thiện N trên giấy khai sinh. Ngày 26/05/2015, cháu N đã được UBND phường TC, quận BĐ, thành phố Hà Nội cấp Giấy khai sinh số 177/2015, quyển số 01/2015. Cũng trong ngày 26/05/2015, UBND phường TC đã ký quyết định số 88/QĐ-UBND công nhận ông G là cha của cháu N.

Ngày 09/02/2021, ông Nguyễn G đột ngột qua đời, không để lại di chúc, không chỉ định ai là người giám hộ cho cháu N đến khi cháu N trưởng thành. Ngày 30/03/2021, gia đình ông Nguyễn G và bà Triệu Thị Thanh T đã họp gia đình và thống nhất quan điểm rằng việc nuôi dưỡng cháu N cần phải có người có quan hệ ruột thịt trong gia đình đứng ra làm người giám hộ, chăm sóc, trông nom để đảm bảo cho sự phát triển của cháu N, buổi họp này đã được lập thành biên bản họp gia đình và có xác nhận của tổ dân phố và chính quyền địa phương. Trong biên bản họp gia đình đã đề xuất cử bà Nguyễn Thị Ngọc V làm người giám hộ cho cháu N vì bà V đã cùng ông G chăm lo cho cháu N từ khi sinh ra và tới thời điểm hiện tại cháu N vẫn đang do bà V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tại cuộc họp, bà Triệu Thị Thanh T cũng thừa nhận việc bà T không đăng ký kết hôn với ông Nguyễn G và không phải là mẹ đẻ của cháu Nguyễn Như Thiện N, bà T chỉ được ông G nhờ đứng tên là mẹ cháu N trên giấy khai sinh và tiến hành các giấy tờ để hợp pháp hóa việc đứng tên là mẹ đẻ cho cháu N. Tuy nhiên, bà Thủy lại không đồng ý với việc cử ai làm người giám hộ cho cháu N.

2. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định

Quyết định của tòa án
Quyết định của tòa án

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[I]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định “bà Triệu Thị Thanh T không có quan hệ mẹ – con với cháu Nguyễn Như Thiện N”. Căn cứ vào khoản 4 Điều 28, khoản 10 Điều 29 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015, bị đơn – bà Triệu Thị Thanh T có hộ khẩu thường trú tại số 35 ngõ 5 LH, phường TC, quận BĐ, thành phố Hà Nội. Do vậy, Tòa án nhân dân quận Ba Đình thụ lý và giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình về việc “xác định không công nhận quan hệ mẹ con” là đúng thẩm quyền.

[II]. Về thủ tục tố tụng:

[1] Bố mẹ của ông Nguyễn G là cụ Nguyễn Như Đ (mất ngày 08/10/1999) và cụ Bùi Thị K (mất ngày 27/08/2018), hai cụ có 04 người con chung gồm: Ông Nguyễn G, sinh năm 1950 (mất ngày 09/02/2021); ông Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1953; bà Nguyễn Thị Ngọc L, sinh năm 1956; bà Nguyễn Thị Ngọc V, sinh năm 1958.

Ông Nguyễn G mất ngày 09/02/2021, không để lại di chúc, không chỉ định ai là người giám hộ cho cháu Nguyễn Như Thiện N. Ông Nguyễn G và bà Triệu Thị Thanh Thủy không có đăng ký kết hôn. Ngày 26/05/2015, UBND phường TC đã ban hành Quyết định số 88/QĐ – UBND công nhận ông Nguyễn G là cha của cháu N. Do vậy, HĐXX xác định hàng thừa kế thứ nhất của ông Nguyễn G là cháu Nguyễn Như Thiện N, sinh ngày 04/12/2014.

Ông Nguyễn Ngọc H, bà Nguyễn Thị Ngọc L và bà Nguyễn Thị Ngọc V là các em ruột của ông Nguyễn G, là người thân thích của ông Nguyễn G; hiện đang chăm sóc nuôi dưỡng cháu Nguyễn Như Thiện N nên theo quy định tại khoản 3 Điều 102; khoản 2 Điều 101; Điều 92 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì ông Nguyễn Ngọc H, bà Nguyễn Thị Ngọc L và bà Nguyễn Thị Ngọc V đủ tư cách khởi kiện theo quy định của pháp luật.

[2] Quá trình giải quyết vụ án, trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải – bị đơn không đưa ra yêu cầu phản tố nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[III]. Về nội dung:

[1]. Về yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn: Cháu Nguyễn Như Thiện N, sinh ngày 04/12/2014 tại Bệnh viện Quốc tế G. Thời điểm cháu N được sinh ra, ông G không đăng ký kết hôn với ai, vì muốn tiến hành đăng ký khai sinh cho cháu N, ông G đã nhờ bà Triệu Thị Thanh T tiến hành đứng tên trên các giấy tờ hồ sơ như sổ khám thai, hồ sơ sinh nở, giấy chứng sinh tại Bệnh viện Quốc tế G, làm cơ sở để thực hiện việc đăng ký và đứng tên là mẹ cho cháu Nguyễn Như Thiện N trên giấy khai sinh.

Ngày 26/05/2015, UBND phường TV đã cấp Giấy khai sinh số 177/2015, quyển số 01/2015 cho cháu Nguyễn Như Thiện N, sinh ngày 04/12/2014. Cùng ngày, UBND phường TC ban hành Quyết định số 88/QĐ – UBND công nhận ông Nguyễn G là cha của cháu N.

Ngày 09/02/2021, ông G mất không để lại di chúc, không chỉ định ai làm người đại diện cho cháu N đến khi cháu trưởng thành.

Ngày 30/03/2021, gia đình ông Nguyễn G đã lập biên bản họp với bà Triệu Thị Thanh T có xác nhận của tổ dân phố và chính quyền địa phương: thống nhất quan điểm việc nuôi dưỡng cháu N cần người có quan hệ ruột thịt trong gia đình đứng ra là người giám hộ cho cháu. Ông H và bà L đã thống nhất cử bà Nguyễn Thị Ngọc V là người giám hộ cho cháu N vì bà V đã cùng ông G chăm sóc cho cháu N từ khi sinh ra cho đến nay. Tại biên bản, bà Triệu Thị Thanh T xác định bà và ông G không có đăng ký kết hôn, ông G là bố đẻ của cháu N, thừa nhận bà không phải là mẹ đẻ của cháu Nguyễn Như Thiện N, được ông G đồng ý cho đứng tên mẹ cháu N trên giấy khai sinh. Tuy nhiên, bà T không đồng ý việc cử ai làm giám hộ cho cháu N.

Ông H, bà L và bà V thấy việc bà T đứng tên mẹ cháu N trên giấy khai sinh là không phù hợp và sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi hợp pháp của cháu N được hưởng các chế độ cũng như hưởng toàn bộ di sản thừa kế của ông Nguyễn G để lại. Nên đề nghị Toà án xét xử: Xác định bà Triệu Thị Thanh T không có quan hệ mẹ – con với cháu Nguyễn Như Thiện N; Tuyên bố bà Triệu Thị Thanh Thủy không phải là mẹ đẻ của cháu Nguyễn Như Thiện N. Yêu cầu cơ quan chức năng có thẩm quyền thực hiện việc cải chính thông tin trên Giấy khai sinh số 177/2015, quyển số 01/2015, do UBND phường TC cấp ngày 26/05/2015 cho cháu Nguyễn Như Thiện N, cụ thể: xóa thông tin bà Triệu Thị Thanh T trong giấy khai sinh này. Để từ đó, gia đình có thể cử người giám hộ cho cháu Nguyễn Như Thiện N, bảo đảm cháu N được hưởng đầy đủ quyền lợi hợp pháp mà cháu xứng đáng được hưởng.

[2] Đối với yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn, quá trình giải quyết tại Toà án, thời gian đầu bị đơn bà T không đồng ý với yêu cầu khởi kiện vì cho rằng mặc dù ông G và bà không có đăng ký kết hôn, nhưng có cưới theo phong tục cổ truyền, bà có sinh sống tại nhà của ông G nên là hôn nhân thực tế. Sau đó, do giận ông nên bà mới dọn về nhà ở không chung sống với ông G nữa. Bà thừa nhận cháu N là con đẻ của ông Nguyễn G. Bà thừa nhận bà và ông G không có con chung, quá trình chung sống bà không mang thai, không sinh ra cháu N, không phải là mẹ đẻ của cháu N. Tuy nhiên, bà T không có chứng cứ chứng minh về việc nhận cháu N làm con nuôi, không có chứng cứ về việc nhờ người mang thai hộ.

Qua xác minh với công an phụ trách khu vực, bà T có đăng ký tạm trú tại nhà ông G từ tháng 11 năm 2019 đến tháng 5/2020 phù hợp với ý kiến trình bày của các đương sự về việc bà T đã ra khỏi nhà ông G không còn chung sống trước khi ông G mất.

[3] Ngày 12/07/2021, Tòa án nhân dân quận Ba Đình đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 276/2021/QĐ – TCGĐ tại Viện Công nghệ ADN và phân tích di truyền yêu cầu bà Triệu Thị Thanh T và cháu Nguyễn Như Thiện N lấy mẫu giám định ADN nhưng bà T từ chối và cho rằng việc giám định ADN là không cần thiết.

[4] Tại Toà án – bà T thừa nhận chữ ký tại Giấy chứng sinh số 81 ngày 04/12/2014 tại Bệnh viện Quốc Tế G (Hải Phòng) không phải chữ ký của bà phù hợp với Kết luận giám định số 38/KL-KTHS ngày 30/03/2022 của Viện Khoa học hình sự – Bộ Công An; kết luận: “Chữ ký, chữ viết đứng tên Triệu Thị Thanh T dưới mục “Cha, mẹ, NDD” trên mẫu cần giám định Giấy chứng sinh số 81 quyển số 01 ngày 04/12/2014 (ký hiệu A) so với chữ ký, chữ viết của Triệu Thị Thanh T trên các mẫu so sánh ký hiệu từ M1 đến M3 không phải do cùng một người ký và viết ra”.

[5] Ngày 27/05/2022, bà T xuất trình cho Toà án Kết quả xét nghiệm ADN (bản gốc) số 22663GL/ADN ngày 26/05/2022 của Viện Công nghệ ADN và phân tích di truyền, giữa bà Triệu Thị Thanh T và cháu Nguyễn Như Thiện N kết luận: “Triệu Thị Thanh T không có quan hệ huyết thống mẹ – con với Nguyễn Như Thiện N”; Bà trình bày đồng ý chấp nhận với mọi yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn, tự nguyện rút tên của bà ở mục thông tin người mẹ tại Giấy khai sinh số 177/2015, quyển số 01/2015, do UBND phường TC cấp ngày 26/05/2015 cho cháu Nguyễn Như Thiện N.

Mặc dù, việc giám định ADN không được thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định của pháp luật (do xét nghiệm theo yêu cầu cá nhân, tự thu thập mẫu) nhưng đây là một trong những tài liệu cần tham khảo.

[6] Xét thấy, tại phiên toà hôm nay, qua quá trình thẩm vấn và tranh luận tại phiên tòa, các bên đương sự đều thừa nhận ông Nguyễn G là bố đẻ của cháu Thiện N. Ông G và bà Triệu Thị Thanh T không có đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống, ông G bà T không có con chung, bà T không mang thai, không sinh cháu Nguyễn Như Thiện N, không phải mẹ đẻ của cháu N; Căn cứ Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX xác định đây là những tình tiết, chứng cứ không phải chứng minh.

Căn cứ Kết quả xét nghiệm ADN số 22663GL/ADN ngày 26/05/2022 của Viện Công nghệ ADN và phân tích di truyền, giữa bà Triệu Thị Thanh T và cháu Nguyễn Như Thiện N đã kết luận: “Triệu Thị Thanh T không có quan hệ huyết thống mẹ – con với Nguyễn Như Thiện N”.

Tại phiên toà, các đương sự đã thoả thuận thống nhất về toàn bộ các nội dung liên quan đến vụ án, không có tranh chấp gì. Bà T tự nguyện rút tên của bà (Triệu Thị Thanh T) ở mục thông tin người mẹ tại Giấy khai sinh số 177/2015, quyển số 01/2015, do UBND phường TC cấp ngày 26/05/2015 cho cháu Nguyễn Như Thiện N. Căn cứ Điều 5; khoản 1 Điều 246 của Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX thấy cần ghi nhận sự thỏa thuận thống nhất này của các đương sự;

Căn cứ Điều 88, 89; 92; khoản 2 Điều 101 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn:

– Xác định bà Triệu Thị Thanh T không có quan hệ mẹ – con với cháu Nguyễn Như Thiện N”;

– Tuyên bố bà Triệu Thị Thanh T, sinh ngày: 18/05/1972. Căn cước công dân số 001172030496, cấp ngày 18/03/2022; Nơi cấp Cục cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội. Có hộ khẩu thường trú và ở tại: số 35 ngõ 5 LH, phường TC, quận BĐ, thành phố Hà Nội; không phải là mẹ đẻ của cháu Nguyễn Như Thiện N, sinh ngày 04/12/2014, có số định danh cá nhân 001214032698; Có hộ khẩu thường trú và ở tại: số nhà 11 ngõ 46 QN, tổ 1, phường QN, quận CG, thành phố Hà Nội.

[7] Về giám hộ: Thực tế, cháu Nguyễn Như Thiện N từ nhỏ đã được bà Nguyễn Thị Ngọc V chăm sóc nuôi dưỡng tại số nhà 11 ngõ 46 QN, tổ 1 phường QN, quận CG, thành phố Hà Nội; Hiện cháu N đã trên 07 tuổi, đang ở với bà V và cùng có nguyện vọng được ở với bà V. Ông H, bà L cũng thống nhất cử bà V làm người giám hộ cho cháu N. Để đảm bảo việc nuôi dưỡng, chăm sóc không làm xáo trộn đến việc học tập cũng như phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần cho cháu N; Căn cứ vào các Điều 21; 46; 47; 48; 49; 52; 53; 54; 55; 58 Bộ Luật Dân sự năm 2015; HĐXX thấy cần phỉa chỉ định bà Nguyễn Thị Ngọc V, sinh năm: 1958, căn cước công dân số 031158005323; nơi cấp: cục cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội; ngày cấp: 28/01/2019; là người giám hộ cho cháu Nguyễn Như Thiện N, sinh ngày 04/12/2014, có số định danh cá nhân 001214032698; Có hộ khẩu thường trú và ở tại: Số nhà 11 ngõ 46 QN, tổ 1, phường QN, quận CG, thành phố Hà Nội. Giao cháu N cho bà Nguyễn Thị Ngọc V tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu N trưởng thành (tròn 18 tuổi) hoặc có sự thay đổi khác.

Bà Nguyễn Thị Ngọc V có trách nhiệm liên hệ Uỷ ban nhân dân phường TC và các cơ quan chức năng thực hiện việc cải chính thông tin trên Giấy khai sinh số 177/2015, quyển số 01/2015, do UBND phường TC cấp ngày 26/05/2015.

[IV]. Về án phí: Bị đơn không phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm về việc “yêu cầu xác định cha mẹ cho con” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBNVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của UBTVQH về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Nguyên đơn được hoàn lại 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí.

[V]. Về quyền kháng cáo:

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[VI] Đề nghị của Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Tòa án nên chấp nhận;

3. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử

Kháng cáo bản án ly hôn

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn về việc: “Xác định bà Triệu Thị Thanh T không có quan hệ mẹ – con với cháu Nguyễn Như Thiện N”;

2. Tuyên bố bà Triệu Thị Thanh T, sinh ngày: 18/05/1972; căn cước công dân số 001172030496, cấp ngày 18/03/2022; nơi cấp: Cục cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội; có hộ khẩu thường trú và ở tại số 35 ngõ 5 LH, phường TC, quận BĐ, thành phố Hà Nội; không phải là mẹ đẻ của cháu Nguyễn Như Thiện N, sinh ngày 04/12/2014; có số định danh cá nhân 001214032698; có hộ khẩu thường trú và ở tại số nhà 11 ngõ 46 QN, tổ 1, phường QN, quận CG, thành phố Hà Nội.

3. Chỉ định bà Nguyễn Thị Ngọc V, sinh năm: 1958, căn cước công dân số 031158005323; nơi cấp: Cục cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội; ngày cấp: 28/01/2019; Hộ khẩu thường trú tại: Xóm 7 thôn KH, xã V Canh, huyện HĐ, thành phố Hà Nội. Hiện ở tại: Số nhà 11 ngõ 46 QN, tổ 1, phường TH, quận CG, thành phố Hà Nội; là người giám hộ cho cháu Nguyễn Như Thiện N, sinh ngày 04/12/2014, có số định danh cá nhân 001214032698; Có hộ khẩu thường trú và ở tại: Số nhà 11 ngõ 46 QN, tổ 1, phường QN, quận CG, thành phố Hà Nội. Giao cho bà Nguyễn Thị Ngọc V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu N cho đến khi cháu N trưởng thành (tròn 18 tuổi) hoặc có sự thay đổi khác.

4. Bà Nguyễn Thị Ngọc V có trách nhiệm liên hệ Uỷ ban nhân dân phường TC và các cơ quan chức năng thực hiện việc cải chính thông tin trên Giấy khai sinh số 177/2015, quyển số 01/2015, do UBND phường TC cấp ngày 26/05/2015 theo quy định của pháp luật.

5. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bị đơn không phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Nguyên đơn được hoàn lại 300.000đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0067144 ngày 28/05/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.

6. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, các bên đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

4. Căn cứ pháp lý:

5. Dịch vụ tư vấn ly hôn của chúng tôi:

Liên hệ Luật sư tư vấn Hôn nhân và gia đình để giúp bạn giảm bớt gánh nặng thủ tục ly hôn. HD Luât & Fdico có các dịch vụ tư vấn về ly hôn mà khách hàng quan tâm nhất:

– Tư vấn soạn thảo mẫu đơn ly hôn đơn phương

– Tư vấn soạn thảo mẫu đơn thuận tình ly hôn

– Tư vấn thủ tục ly hôn

– Tư vấn về phân chia tài sản

– Tư vấn giành quyền nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn

Để được tư vấn hỗ trợ nhanh chóng, kịp thời, liên hệ ngay Hotline – 0988.073.181

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

0988073181