1. Tóm tắt bản án ly hôn số 12/2024/HNGĐ-PT
Ngày 09 tháng 4 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 10/2024/TLPT-HNGĐ ngày 21 tháng 3 năm 2024 về việc tranh chấp “chia tài sản chung sau khi ly hôn”.
1. Nguyên đơn: Anh Lê Thành N, sinh năm 1981 (Có mặt); Nơi cư trú: Tổ 13, khóm XB, phường TB, thị xã TB, tỉnh AG.
2. Bị đơn: Chị Trần Ký T, sinh năm 1980 (Có mặt);
Nơi cư trú: Tổ 13, khóm XB, phường TB, thị xã TB, tỉnh AG.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Huỳnh Văn Th, sinh năm 1968 (Xin vắng mặt);
3.2 Bà Lê Thị N2, sinh năm 1964 (Xin vắng mặt);
Cùng cư trú: Tổ 13, khóm XB, phường TB, thị xã TB, tỉnh AG.
3.3 Ông Lê Thanh H, sinh năm 1973 (có mặt);
3.4 Bà Nguyễn Thị Thuý K, sinh năm 1979 (Xin vắng mặt);
Cùng cư trú: khóm XB, phường TB, thị xã TB, tỉnh AG.
3.5 Ông Nguyễn Văn Th2, sinh năm 1957 (Xin vắng mặt);
3.6 Bà Trương Thị Ch, sinh năm 1958 (Xin vắng mặt);
Nơi cư trú: Tổ 13, khóm XB, phường TB, thị xã TB, tỉnh AG.
3.7 Ông Lê Văn Gi, sinh năm 1950 (Xin vắng mặt);
3.8 Bà Võ Thị L, sinh năm 1955 (Có mặt);
Cùng cư trú: Tổ 13, khóm XB, phường TB, thị xã TB, tỉnh AG.
3.9 Cháu Lê Trần Thảo Q, sinh ngày 02/04/2007;
3.10 Cháu Lê Trần Trung K, sinh ngày 03/07/2014;
Người đại diện theo pháp luật: Chị Trần Ký T, sinh năm 1980, nơi cư trú:
tổ 13, khóm Xuân Bình, phường Tịnh Biên, tỉnh An Giang (Có mặt).
4. Người kháng cáo: Chị Trần Ký T là bị đơn trong vụ án
Tóm tắt nội dung vụ án tranh chấp chia tài sản chung sau ly hôn
Anh N và chị Trần Ký T là vợ chồng nhưng đã ly hôn theo Quyết định ly hôn số 164 ngày 31/7/2020 của Toà án nhân dân thị xã Tịnh Biên. Khi ly hôn, anh N không yêu cầu chia tài sản chung mà để nhà cho chị T ở nuôi con nhưng hiện nay chị T đã có gia đình khác, trong khi căn nhà là tài sản chung anh N chỉ để cho chị T ở nuôi con.
Căn nhà xây dựng năm 2009 nền lót gạch ông, vách tole, mái tole (ngang 7m, dài 13m) cất trên đất mượn của cha mẹ anh N là ông Lê Văn Gi, bà Võ Thị L (ngang 3m x dài 13m) và đất mượn của anh Lê Thanh H (ngang 4m x dài 13m); việc mượn đất cất nhà ở không làm giấy tờ.
Anh N yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung của anh N và chị T đối với căn nhà kết cấu loại nhà 01 tầng được xây dựng trên nền cát san lấp, nền lót gạch, móng đá, khung cột gỗ, vách và mái tole như trên theo hiện trạng đo đạc có diện tích 92,9m2, về giá trị nhà theo giá của Hội đồng định giá.
Tải bản án tại: https://thuvienphapluat.vn/banan/ban-an/ban-an-ve-tranh-chap-chia-tai-san-chung-sau-khi-ly-hon-so-122024hngdpt-326285
2. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định tranh chấp chia tài sản chung sau ly hôn
[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Trần Ký T kháng cáo và nộp tiền tạm ứng án phí trong thời hạn luật định nên đủ cơ sở để xem xét yêu cầu kháng cáo của chị T theo trình tự phúc thẩm.Ông Huỳnh Văn Th, bà Lê Thị N2, bà Nguyễn Thị Thuý K, ông Nguyễn Văn Th2, bà Trương Thị Ch, ông Lê Văn Gi có Đơn yêu cầu được vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ khoản 2 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
[2] Về kháng cáo của chị T, xét thấy anh N và chị T là vợ chồng nhưng đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 164/2020/QĐST-HNGĐ ngày 31/7/2020 của Toà án nhân dân thị xã Tịnh Biên, về tài sản chung và nợ chung anh N và chị T không yêu cầu giải quyết.Căn nhà được anh N và chị T xây dựng vào năm 2009 có kết cấu nền lót gạch bông, móng đá, cột gỗ, vách + mái tole có diện tích 92,90m2 trị giá 99.398.000 đồng là tài sản chung của anh N và chị T. Nhà được xây dựng trên phần đất diện tích 42,5m2 thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH05681 ngày 04/05/2018 cấp cho ông Nguyễn Văn Th2, bà Trương Thị Ch và xây dựng trên phần đất diện tích 80m2 do ông H, bà K nhận chuyển nhượng của ông Th, bà N2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Chị T cho rằng gia đình anh N đã cho anh N, chị T phần đất cất nhà nhưng anh N, gia đình anh N không thừa nhận và chị T không cung cấp được chứng cứ mới chứng minh cho lời trình ày của mình. Do đất cất nhà là của gia đình anh N nên việc anh N và chị T thỏa thuận theo Tờ thỏa thuận ngày 23/7/2020 để lại nhà và đất cho 02 con là không có căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm, chị T xác định hiện nay 02 con đang ở tại căn nhà tranh chấp, chị T chỉ đến dọn dẹp nhà cửa, chăm sóc con mà không ở tại căn nhà này (chị T đang ở chung với em). Do căn nhà được xây dựng trên phần đất diện tích 122,50m2 của gia đình anh N. Tòa án cấp sơ thẩm giao căn nhà cho anh N sở hữu, uộc chị T giao trả căn nhà cho anh N và anh N có nghĩa vụ hoàn trả ½ giá trị căn nhà cho chị T với số tiền 49.699.000 đồng là có căn cứ.
[3] Về yêu cầu kháng cáo của chị T được trích một phần công sức đóng góp sửa chữa nhà và gìn giữ tài sản. Xét thấy, tại phiên tòa chị T xác định sau khi ly hôn chị có sửa chữa căn nhà với số tiền 5.000.000 đồng nên chị T yêu cầu trích một phần công sức đóng góp nhưng không được anh N thừa nhận và chị T cũng không cung cấp được chứng cứ mới chứng minh cho yêu cầu kháng cáo nên không có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận. [4] Về thời hạn lưu cư, cấp sơ thẩm nhận định chị T được quyền lưu cư 06 tháng, kể từ ngày tuyên án hôm nay (Ngày 17/11/2023) là chưa chính xác mà chị T được quyền lưu cư 06 tháng, kể từ ngày ản án có hiệu lực pháp luật. Riêng các cháu Lê Trần Thảo Q và Lê Trần Trung K thì anh N không yêu cầu các cháu phải giao trả nhà nên Hội đồng xét xử không xem xét.Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị T. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 126/2023/DS-ST ngày 17 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã Tịnh Biên như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang.
[5] Về án phí: Về yêu cầu kháng cáo của chị T không được chấp nhận nên chị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, án phí được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp.Các phần khác của bản án các đương sự không kháng cáo và Viện kiểm sát không kháng nghị nên được giữ nguyên.
3. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử
1. Căn cứ vào:
– Khoản 1 Điều 308, Điều 313, Điều 315 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
– Điều 33, Điều 59, Điều 62, Điều 63 của luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
– Khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy an Thường vụ Quốc hội.
2. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị Trần Ký T. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 126/2023/DS-ST ngày 17 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã Tịnh Biên, tỉnh An Giang.
3. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện chia tài sản chung sau khi ly hôn của nguyên đơn là anh Lê Thành N.
3.1 Xác định tài sản chung của anh Lê Thành N và chị Trần Ký T là căn nhà có kết cấu nền lót gạch bông, móng đá, cột gỗ, mái + vách tole có diện tích 92,9m2 trị giá 99.398.000 đồng (Trong đó có một phần căn nhà tại các điểm 9, 8, 22, 24 về 9 với diện tích 30,1m2 và một phần căn nhà tại các điểm 8, 7, 6, 22 về 8 với diện tích 62,8m2). Nhà được xây dựng trên phần đất diện tích 42,5m2 thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH05681 cấp ngày 04/05/2018 cho ông Nguyễn Văn Th2, bà Trương Thị Ch và phần đất diện tích 80m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nhà và đất toạ lạc tại tổ 13, khóm Xuân Bình, thị trấn Tịnh Biên, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang.
3.2 Anh Lê Thành N được sở hữu căn nhà có kết cấu nền lót gạch ông, móng đá, cột gỗ, mái + vách tole có diện tích 92,9m2, toạ lạc tại tổ 13, khóm Xuân Bình, thị trấn Tịnh Biên, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang.
3.3 Buộc chị Trần Ký T có nghĩa vụ giao trả căn nhà cho anh Lê Thành N. Chị Trần Ký T được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày ản án có hiệu lực pháp luật.
3.4 Buộc anh Lê Thành N có nghĩa vụ hoàn trả ½ giá trị căn nhà cho chị Trần Ký T với số tiền 49.699.000 đồng.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
4.1 Anh Lê Thành N phải chịu 2.485.000đồng án phí dân sự sơ thẩm. Án phí được khấu trừ vào số tiền 875.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0007669 ngày 19/4/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Tịnh Biên nên anh Lê Thành N còn phải nộp thêm 1.610.000 đồng.
4.2 Chị Trần Ký T phải chịu 2.485.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
5. Về án phí dân sự phúc thẩm: Chị Trần Ký T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Án phí được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0010639 ngày 25/12/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tịnh Biên, tỉnh An Giang.
Kể từ ngày ên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ên phải thi hành án chưa thi hành đầy đủ khoản tiền nêu trên thì còn phải chịu lãi phát sinh do chậm thực hiện nghĩa vụ theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Ly hôn khi bị đơn cố giấu địa chỉ:https://thutuclyhonnhanh.vn/ly-hon-bi-don-co-giau-dia-chi/
Ly hôn do bạo lực gia đình: https://thutuclyhonnhanh.vn/bao-luc-gia-dinh/
4. Căn cứ pháp lý:
- Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
- https://congbobanan.toaan.gov.vn
5. Dịch vụ tư vấn ly hôn của chúng tôi:
Liên hệ Luật sư tư vấn Hôn nhân và gia đình để giúp bạn giảm bớt gánh nặng thủ tục ly hôn. HD Luât & Fdico có các dịch vụ tư vấn về ly hôn mà khách hàng quan tâm nhất:
– Tư vấn soạn thảo mẫu đơn ly hôn đơn phương
– Tư vấn soạn thảo mẫu đơn thuận tình ly hôn
– Tư vấn thủ tục ly hôn
– Tư vấn về phân chia tài sản
– Tư vấn giành quyền nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn
Để được tư vấn hỗ trợ nhanh chóng, kịp thời, liên hệ ngay Hotline – 0988.073.181