1. Tóm tắt nội dung bản án số 84/2022/HNGĐ-ST – “ly hôn do chồng nghiện ma túy”
- Nguyên đơn: Chị Triệu Thị V, sinh năm 199x.
Nơi ĐKHKTT: Xóm L, xã Đ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Chỗ ở hiện nay: Thôn N, xã Y , huyện C, tỉnh Lạng Sơn. (Có mặt)
- Bị đơn: anh Trình Văn K, sinh năm 199x;
Nơi ĐKHKTT: Xóm L, xã Đ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.
Hiện nay đang cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện ma túy số 02, thành phố Hà Nội; địa chỉ: Xã Yên Bài, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. (Vắng mặt có lý do).
- Nội dung vụ án ly hôn do chồng nghiện ma túy
Theo đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 12/7/2022 và các lời khai tiếp theo tại Tòa, nguyên đơn Triệu Thị V trình bày: Năm 2016, sau thời gian tìm hiểu thì chị và anh K tổ chức kết hôn theo phong tục địa phương, sau đó tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng ngày 21/7/2016, việc đăng ký do hai bên tự nguyện thực hiện. Sau kết hôn, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc yêu thương chăm sóc nhau. Tuy nhiên, do quan điểm sống khác biệt, tình cảm vợ chồng ngày càng đi xuống, không yêu thương chăm sóc nhau nữa. Đặc biệt đến tháng 3 năm 2018 thì hai vợ chồng ly thân đến nay vì anh K nghiện ma túy, nhiều lần có hành vi vi phạm pháp luật. Hiện nay anh K đang cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện ma túy số 02, thành phố Hà Nội; địa chỉ: Xã Yên Bài, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Hiện nay giữa hai vợ chồng đã không còn tình cảm với nhau, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn anh Trình Văn K. Trong thời kỳ hôn nhân, hai vợ chồng có một con chung tên Trình Bảo N, sinh ngày 26/10/201x, hiện nay đang sống với chị V. Sau khi ly hôn chị V yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, giáo dục con chung và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Giữa chị và anh K không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định:
[1]. Về thẩm quyền: Bị đơn Trình Văn K có hộ khẩu thường trú và trước khi đi cai nghiện tập trung thì cư trú tại: Xóm L, xã Đ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Vì vậy, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng là có căn cứ. [2]. Về tố tụng: Bị đơn Trình Văn K hiện nay đang cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện ma túy số 02, thành phố Hà Nội không thể có mặt tại Tòa và có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Xét thấy đã có lời khai trong hồ sơ và việc vắng mặt của bị đơn không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung. [3]. Về quan hệ tranh chấp: Chị Triệu Thị V yêu cầu ly hôn anh Trình Văn K, giành quyền nuôi con chung và không yêu cầu cấp dưỡng, các vấn đề khác không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, đây là quan hệ ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tung dân sự. [4]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Triệu Thị V và anh Trình Văn K tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương và tiến hành đăng ký kết hôn ngày 21/7/2016 tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Việc đăng ký là hoàn toàn tự nguyện, đúng theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014. Như vậy, việc kết hôn giữa chị V và anh K là hợp pháp và quan hệ vợ chồng được pháp luật công nhận từ ngày đi đăng ký kết hôn.Thời gian đầu vợ chồng sống hóa thuận, hạnh phúc và có với nhau 01 con chung. Tuy nhiên sau đó phát sinh mâu thuẫn; hai vợ chồng bất đồng quan điểm, không tìm được tiếng nói chung Hiện nay đang trong thời gian cai nghiện tập trung tại Cơ sở cai nghiện ma túy. Từ đó hai vợ chồng cũng không còn tình cảm với nhau nữa. Mặt khác, tại bản tự khai ngày 09/8/2022, anh K cũng nhất trí ly hôn theo yêu cầu của chị V cùng nguyện vọng được nuôi con của chị. Từ những phân tích, nhận định trên đây, xét thấy tình trạng hôn nhân giữa hai vợ chồng chị V, anh K ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu xin ly hôn của chị V và ý kiến của Kiểm sát viên là có căn cứ nên cần được chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.
[5]. Về con chung: Giữa chị V và anh K có 01 con chung tên Trình Bảo N, sinh ngày 26/10/201x. Sau khi ly hôn, chị V có nguyện vọng được nuôi con chung và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử thấy rằng: Hiện nay anh K đang trong thời gian cai nghiện tập trung, không có điều kiện trực tiếp chăm sóc con chung, cháu N cũng đã sống cùng mẹ từ nhỏ, nếu thay đổi môi trường sống sẽ ảnh hưởng đến việc sinh hoạt, học tập của cháu. Mặt khác anh K cũng nhất trí để chị V chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Vì vậy, cần giao cháu N cho chị V trực tiếp chăm sóc, giáo dục và không đặt vấn đề cấp dưỡng nuôi con đối với anh K là có căn cứ. [6]. Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. [7]. Về án phí: Chị V phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước. Xác nhận chị đã nộp đủ.3. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Triệu Thị V được ly hôn anh Trình Văn K.
2. Về con chung: Giao cháu Trình Bảo N, sinh ngày 26/10/201x cho chị Triệu Thị V trực tiếp chăm sóc, giáo dục đến tuổi trưởng thành (hoặc đến khi có Bản án, Quyết định khác của Tòa án thay thế) và không đặt vấn đề cấp dưỡng nuôi con đối với anh Trình Văn K.
Sau khi ly hôn, anh Trình Văn K có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh thực hiện quyền này.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
4. Về án phí: Chị Triệu Thị V phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước, xác nhận chị đã nộp đủ.
5. Về quyền kháng cáo: Chị Triệu Thị V có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh Trình Văn K có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt Bản án hợp lệ
Ly hôn khi bị đơn cố giấu địa chỉ:https://thutuclyhonnhanh.vn/ly-hon-bi-don-co-giau-dia-chi/
Ly hôn do bạo lực gia đình: https://thutuclyhonnhanh.vn/bao-luc-gia-dinh/
4. Đánh giá của chúng tôi về bản án số 84/2022/HNGĐ-ST – “ly hôn do chồng nghiện ma túy”
Tòa án nhân dân huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng đã căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39; Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 53, 56, 57, 58 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án là đúng theo quy định của pháp luật.
5. Căn cứ pháp lý:
- Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
- https://congbobanan.toaan.gov.vn
6. Dịch vụ tư vấn ly hôn của chúng tôi:
Liên hệ Luật sư tư vấn Hôn nhân và gia đình để giúp bạn giảm bớt gánh nặng thủ tục ly hôn. HD Luât & Fdico có các dịch vụ tư vấn về ly hôn mà khách hàng quan tâm nhất:
– Tư vấn soạn thảo mẫu đơn ly hôn đơn phương
– Tư vấn soạn thảo mẫu đơn thuận tình ly hôn
– Tư vấn thủ tục ly hôn
– Tư vấn về phân chia tài sản
– Tư vấn giành quyền nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn
Để được tư vấn hỗ trợ nhanh chóng, kịp thời, liên hệ ngay Hotline – 0988.073.181.