0984 216 682

Bản án số 19/2021/HNGĐ-ST – Ly hôn, chia tài sản chung, đòi tài sản

Chia tài sản chung của vợ chồng
  1. Tóm tắt nội dung Bản án số 19/2021/HNGĐ-ST ngày 01/02/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá tỉnh Kiên Giang về việc “Xin ly hôn, nuôi con chung, chia tài sản chung khi ly hôn, đòi tài sản”

Tòa án giải quyết: Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang

Ngày xét xử: 01/02/2021

Loại Bản án: Sơ thẩm

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Phan Thùy D, sinh năm 1992, địa chỉ Số 59 Trần Hữu Trang, phường Vĩnh Bảo, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

Bị đơn: Anh Phan Thanh Q, sinh năm 1990, địa chỉ Số 82 Nguyễn Cửu Đàm, phường Tân Sơn Nhì, quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập:

Bà Đinh Thị Ch, sinh năm 1958, địa chỉ số 82 Nguyễn Cửu Đàm, phường Tân Sơn Nhì, quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

– Ông Phan Thanh B, sinh năm 1955, địa chỉ 278-278a Trần B Trọng, phường Phú Trung, quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo ủy quyền của ông B là bà Đinh Thị Ch (vợ), đại diện theo văn bản ủy quyền ngày 20/11/2020.

– Ông Nguyễn Duy Khánh, sinh năm 1993

– Bà Trịnh Anh Thi, sinh năm 1993

Cùng cư trú tại địa chỉ: số 465 Mạc Cửu, phường Vĩnh Thanh, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang

  • Nội dung vụ việc:

Chị D và anh Q quen nhau, có tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn ngày 05/02/2019 tại UBND phường Vĩnh Thanh. Trong quá trình sinh sống, mẹ chồng chị D là bà Ch có mua 01 căn nhà của ông Cao Văn C tại số 465 Mạc Cửu, phường Vĩnh Thanh, thành phố Rạch Giá, tinh Kiên Giang hồi tháng 10/2019 với số tiền 2,5 tỷ đồng. Bà Ch đã đặt cọc trước cho ông C số tiền 100.000.000 đồng, số tiền còn lại 2,4 tỷ đồng được bà Ch trả bằng hình thức ủy nhiệm chi qua ngân hàng Sacombank chi nhánh Kiên Giang. Hiện tại căn nhà bà Ch mua lại đã được cải tạo, tu sửa với chi phí là 400.000.000 đồng. Do bà Ch đã tuổi cao đi lại khó nên cho anh Q và chị D đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR133713. Tuy nhiên, trong cuộc sống, vợ chồng anh phát sinh mâu thuẫn không thể hòa giải nên đã sống ly thân từ 7/2020. Hiện nay, chị D muốn được ly hôn với anh Q.

Về con chung: Anh Q và chị D có một con chung là cháu Phan Nguyễn Xuân Anh, sinh ngày 28/08/2019, hiện đang do chị D nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị D yêu cầu được nuôi cháu Anh và yêu cầu anh Q cấp dưỡng một lần số tiền 300.000.000 đồng.

Về tài sản chung: Chị D cho rằng mảnh đất tại số 465 Mạc Cửu là tài sản chung của vợ chồng chị do vợ chồng chị đứng tên nên yêu cầu chia 1/2 giá trị là 1.250.000.000 đồng.

Về công nợ: Không có

  • Quyết định của Tòa án:

Quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm (Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá):  Tại Bản án số 19/2021/HNGĐ-ST Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc xin ly hôn của chị D. Giao con chung là cháu Xuân Anh cho chị D nuôi dưỡng trực tiếp, ghi nhận sự thỏa thuận về mức cấp dưỡng của anh Q cho con chung là 3.000.000 đồng mỗi tháng, cấp dưỡng hàng tháng cho đến khi cháu Xuân Anh đủ 18 tuổi.

Còn về tài sản, tòa án không chấp nhận yêu cầu chia tài sản của chị D, chấp nhận yêu cầu đòi tài sản của bà Ch, buộc chị D và anh Q phải sang tên lại cho bà Ch trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR133713.

Tải Bản án tại đây: Bản án số 19/2021/HNGĐ-ST ngày 01/02/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá

Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
  1. Bình luận Bản án số 19/2021/HNGĐ-ST ngày 01/02/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá về việc “Xin ly hôn, nuôi con chung, chia tài sản chung khi ly hôn, đòi tài sản”

  • Về trình tự, thủ tục tố tụng

Về thẩm quyền của tòa án:

Căn cứ vào các quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá thụ lý giải quyết vụ án dân sự này là đúng theo quy định của pháp luật.

Thẩm quyền theo vụ việc: Có thể thấy trường hợp ly hôn của chị D thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Ngoài ra, khoản 1 Điều 28 cũng quy định tranh chấp về ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; chia tài sản sau khi ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án. Do đó, việc ly hôn của chị D thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án.

Thẩm quyền theo cấp: Điểm a khoản 1 Điều 35 quy định như sau:

“1. Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây:

a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này, trừ tranh chấp quy định tại khoản 7 Điều 26 của Bộ luật này;”

Theo quy định này, các tranh chấp thuộc khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án nhân dân cấp huyện. Do đó, tranh chấp ly hôn của chị D sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án nhân dân thành phố.

Thẩm quyền theo lãnh thổ:

Điểm c khoản 1 Điều 39 BLTTDS quy định: “Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết”.

Theo quy định này thì tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm tranh chấp về hôn nhân và gia đình tại Điều 28. Đối chiếu quy định này với trường hợp của chị D thì chị D có quyền yêu cầu tòa án nơi có bất động sản để giải quyết vụ án này. Vì vậy, tòa án thành phố Rạch Giá giải quyết vụ án này là đúng theo quy định.

Từ các căn cứ và phân tích trên có thể thấy tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang giải quyết vụ án này là đúng theo quy định của pháp luật.

Về các thủ tục tố tụng khác: Có thể thấy trình tự, thủ tục tố tụng của việc này đã tuân theo quy định của BLTTDS 2015.

Xem thêm: Thủ tục thay đổi quyền nuôi con sau ly hôn năm 2024

Tài sản là nhà đất
Tài sản là nhà đất
  • Về nội dung giải quyết vụ án

Về việc ly hôn giữa chị D và anh Q:

Chị D và anh Q tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Vĩnh Thanh ngày 05/02/2019. Trong quá trình chung sống, anh chị xảy ra mâu thuẫn nên đã ly thân từ 07/2020. Hiện nay, anh Q và chị D không còn tình cảm với nhau, vì vậy chị D xin được ly hôn với anh Q và tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị D là hoàn toàn phù hợp.

Về việc giải quyết vấn đề con chung:

Chị D và anh Q có một con chung là cháu Xuân Anh sinh ngày 28/08/2019. Thời điểm ly hôn thì cháu Xuân Anh chưa đủ 36 tháng tuổi. Hơn nữa chị D cũng đang là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Xuân Anh, đồng thời có yêu cầu nuôi dưỡng trực tiếp cháu. Tòa án quyết định giao cháu Xuân Anh cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp với tình hình hiện nay của cháu, phù hợp theo quy định của pháp luật.

Về việc cấp dưỡng con chung: Ban đầu chị D yêu cầu anh Q cấp dưỡng một lần với số tiền là 300.000.000 đồng. Tuy nhiên, sau đó anh Q chỉ đồng ý cấp dưỡng số tiền 3.000.000 đồng/tháng đến khi con đủ 18 tuổi. Đồng thời chị D sau đó cũng đồng ý với yêu cầu của anh D. Vì vậy, Tòa án quyết định công nhận sự thỏa thuận của hai anh chị, anh Q cấp dưỡng hàng tháng cho cháu Xuân Anh, mỗi tháng là 3.000.000 đồng cho đến khi cháu Xuân Anh đủ 18 tuổi là phù hợp.

Về việc chia tài sản và yêu cầu đòi lại tài sản:

Theo nội dung trình bày của chị D, thửa đất tại số 465 Mạc Cửu là tài sản chung của vợ chồng chị. Chị D thừa nhận người mua và bỏ tiền ra trả cho ông Cao Văn C là bà Ch (mẹ chồng). Tuy nhiên, bà Ch đã tặng cho cho vợ chồng chị, và hiện nay giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang đứng tên vợ chồng chị.

Bà Ch trình bày thửa đất đó là do bà bỏ tiền ra mua, anh Q và chị D không đóng góp tiền mua thửa đất đó, đồng thời tiền sửa chữa cải tạo nhà sau khi mua đất đều cho một mình bà Ch trả. Ngoài ra, anh Q và chị D chưa từng quản lý, ở trên mảnh đất đó ngày nào, do bà Ch tuổi đã cao, đi lại khó nên nhờ anh Q và chị D đứng tên hộ. Chị D cho rằng bà Ch tặng cho vợ chồng chị mảnh đất trên nhưng không xuất trình được chứng cứ chứng minh hợp pháp nào.

Xét thấy lời khai của bà Ch là hoàn toàn phù hợp với các chứng cứ và lời khai của ông B, anh Q, anh Khánh, chị Thi. Vì vậy, tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc chia tài sản của chị D, chấp nhận yêu cầu đòi tài sản của bà Ch, yêu cầu anh Q và chị D phải sang tên trả lại quyền sử dụng đất cho bà Ch, ghi nhận sự tự nguyện của bà Ch hỗ trợ tiền đứng tên hộ mảnh đất cho chị D số tiền là 150.000.000 đồng.

Xem thêm: Tài sản riêng, tài sản chung của vợ chồng theo quy định năm 2024

Quyết định của tòa án
Quyết định của tòa án
  1. Dịch vụ tư vấn ly hôn của chúng tôi

Liên hệ Luật sư tư vấn Hôn nhân và gia đình để giúp bạn giảm bớt gánh nặng thủ tục ly hôn. HD Luât & Fdico có các dịch vụ tư vấn về ly hôn mà khách hàng quan tâm nhất:

– Tư vấn soạn thảo mẫu đơn ly hôn đơn phương

– Tư vấn soạn thảo mẫu đơn thuận tình ly hôn

– Tư vấn thủ tục ly hôn

– Tư vấn về phân chia tài sản

– Tư vấn giành quyền nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn

– Tư vấn ly hôn có yếu tố nước ngoài

Để được tư vấn hỗ trợ nhanh chóng, kịp thời, liên hệ ngay Hotline – 0988.073.181 hoặc 0967.678.613

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

0988073181