1. Căn cứ pháp lý
- Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014
- https://congbao.chinhphu.vn/noi-dung-van-ban-so-326-2016-ubtvqh14-22191?cbid=16544
- https://congbobanan.toaan.gov.vn/
2. Tóm tắt nội dung bản án
- Nguyên đơn: Bà Hứa Đặng Thu T, sinh năm 1985. Địa chỉ: 115 đường N, phường H, quận T, thành phố Hồ Chí Minh (có mặt);
- Bị đơn: Ông Nguyễn Hồng C1, sinh năm 1981. Địa chỉ: C10-8 chung cư N, phường P, quận T, thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
- Người có kháng cáo: Nguyên đơn bà Hứa Đặng Thu T.

* Tóm tắt nội dung vụ án và quyết định của bản án sơ thẩm:
Bà Hứa Đặng Thu T kết hôn và chung sống với ông Nguyễn Hồng C1 vào năm 2013, sinh cháu C2 vào năm 2014. Trong cuộc sống hôn nhân ông C1 luôn tạo áp lực đối với bà, gia đình bắt đầu mâu thuẫn, bà không đồng ý cuộc sống nhiều áp lực và hà khắc, buộc lòng bà phải nộp đơn ly hôn. Tại thời điểm ly hôn, cháu C2 chưa đủ 36 tháng tuổi, theo luật thì bà được trực tiếp nuôi con nhưng bà không được Thẩm phán giải quyết vụ án giải thích về việc này, sau khi được sự động viên của Thẩm phán và bà sợ ông C1 ảnh hưởng đến bà và con cùng gia đình cha mẹ bà, đồng thời ông C1 thỏa thuận cho bà mang con về vào cuối tuần nên bà buộc lòng giao con cho ông C1 trực tiếp nuôi dạy. Cháu C2 khi chưa đủ 36 tháng tuổi thì ông C1 tự giác chở con sang nhà bà vào mỗi cuối tuần, sau khi cháu hơn 36 tháng tuổi thì ông C1 không chở con sang nhà bà nữa mà buộc bà phải sang đón. Sau nhiều lần bà đón con nhưng ông C1 không hợp tác và tìm mọi lý do để bà không đón được con khiến bà phải nhờ chính quyền địa phương can thiệp mới đón được con về nhà. Ông C1 là người trực tiếp nuôi dạy con nhưng ông làm ảnh hưởng đến tâm lý của con để con có thái độ sợ mẹ, nên bà T nghi ngờ ông C1 nuôi dạy con không tốt. Ông C1 nộp đơn đến Tòa yêu cầu hạn chế quyền thăm nom, chăm sóc con của bà T, cho thấy ông đã không giữ đúng thỏa thuận về việc chăm sóc, nuôi dạy con chung sau ly hôn mà bà T và ông C1 đã ký kết, nên bà yêu cầu thay đổi quyền nuôi con đối với ông C1, giao cháu C2 cho bà trực tiếp nuôi dạy và không yêu cầu ông C1 cấp dưỡng nuôi con.

Bản án sơ thẩm số 413/2018/HNGĐ-ST ngày 09/5/2018 của Tòa án nhân dân quận T, thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
[1] Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bà Hứa Đặng Thu T về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn.
Giao con chung là Nguyễn Minh C1, sinh năm 2014 cho ông C1 trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho bà T do ông C1 không có yêu cầu.
Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng nuôi con có thể thay đổi.
Bà T được quyền thăm nom con không ai được cản trở.
[2] Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hồng C1 về việc hạn chế quyền thăm nom con.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, tuyên về quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành bản án theo luật định.
Ngày 18/5/2018, bị đơn là bà Hứa Đặng Thu T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm về việc trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung.
Xem chi tiết bản án tại: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta151032t1cvn/chi-tiet-ban-an
3. Nhận định của Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm
Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bà Hứa Đặng Thu T làm trong thời hạn luật định và hợp lệ nên được chấp nhận xem xét. Ngày 09/10/2017, ông Nguyễn Hồng C1 khởi kiện yêu cầu hạn chế quyền thăm nom, chăm sóc con chung đối với bà Hứa Đặng Thu T. Ngày 06/11/2017, bà T có đơn yêu cầu phản tố thay đổi quyền nuôi con đối với ông C1. Ngày 22/11/2017, Tòa án sơ thẩm tiến hành hòa giải. Ngày 01/12/2017, ông C1 rút đơn yêu cầu khởi kiện.
Căn cứ vào điểm b Khoản 2 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự, đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông C1, bị đơn là bà T trở thành nguyên đơn, ông C1 là nguyên đơn trở thành bị đơn. Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét, không xác định lại tư cách tố tụng của đương sự trong vụ án là thiếu sót, cần phải khắc phục.
Về nội dung kháng cáo: Bà T kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu được nuôi con chung là Nguyễn Minh C2 sinh năm 2014 và không yêu cầu ông C1 cấp dưỡng nuôi con.
HĐXX phúc thẩm xét: Việc chăm sóc, nuôi dạy con chung chưa thành niên là trách nhiệm và nghĩa vụ, cũng là quyền lợi của cha mẹ, việc các bên đương sự tranh chấp nuôi con chung sau khi ly hôn cũng là xuất phát từ tình yêu thương của cha mẹ đối với con cái, nhưng giao con cho ai là người trực tiếp nuôi dạy con chung thì phải xem xét đến quyền lợi của trẻ để trẻ phát triển tốt nhất.
Từ những chứng cứ đã cung cấp cho thấy ông C1 đã vi phạm thỏa thuận của hai bên về việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng bà T không có chứng cứ chứng minh ông C1 cản trở bà thăm nom nuôi dưỡng con là thiếu sót.
Tại tòa, bà T cung cấp chứng cứ về nơi ở và công việc, thu nhập của bà cho thấy bà có đủ điều kiện về nơi ở và công việc, thu nhập ổn định để nuôi con. Hiện nay ông C1 đã kết hôn (vào ngày 02/6/2018), cháu C2 hiện còn nhỏ, ông C1 đã lập gia đình mới vì vậy cần giao con chung cho bà T trực tiếp nuôi con chung là phù hợp.
Về cấp dưỡng nuôi con, bà T không yêu cầu nên HĐXX không xem xét.
Vì vậy, yêu cầu kháng cáo của bà T có cơ sở nên HĐXX phúc thẩm chấp nhận cần xem xét sửa án sơ thẩm.
Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị nên HĐXX không xét.

4. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên xử
– Căn cứ Khoản 2 Điều 308, Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 37, Khoản 4 Điều 147, Khoản 1 Điều 228, điểm a Khoản 2 Điều 478, Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
– Căn cứ Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 116 và Điều 117 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
– Căn cứ Pháp lệnh án phí và lệ phí Tòa án và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử: Sửa bản án sơ thẩm
1. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Hứa Đặng Thu T về việc thay đổi quyền nuôi con đối với ông Nguyễn Hồng C1.
Giao con chung là Nguyễn Minh C2 sinh năm 2014 cho bà T trực tiếp nuôi dạy, ông C1 không phải cấp dưỡng nuôi con do bà T không yêu cầu. Ông C1 phải có trách nhiệm giao con cho bà T ngay khi án có hiệu lực thi hành.
Ông C1 có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con mà không ai được cản trở.
Bà T có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông C1 nếu ông C1 lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con.
2. Về án phí:
Bà T không phải nộp án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn lại số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng theo biên lai thu số AA/2017/0011106 ngày 21/5/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận T, thành phố Hồ Chí Minh cho bà T.
Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên xử
5. Quan điểm của chúng tôi về bản án số 765/2018/HNGĐ-PT ngày 20/8/2018 về tranh chấp quyền trực tiếp nuôi con
Về tố tụng, bản án sơ thẩm số 413/2018/HNGĐ-ST ngày 09/5/2018 của TAND quận T, thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo ngày 18/5/2017. Theo Khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự, kháng cáo của bà T trong thời hạn luật định.
Về nội dung, tại phiên tòa và chứng cứ tại hồ sơ cho thấy ông C1 đã không còn tuân thủ thỏa thuận giữa hai bên đã ký kết vào ngày 26/11/2016 nên việc bà T yêu cầu thay đổi quyền nuôi con đối với ông C1 là có cơ sở. Bà T hiện có nơi ở ổn định, có công việc và thu nhập ổn định nên bà có đủ điều kiện để nuôi dạy con. Xét thấy, quyết định giao con cho bà T là hoàn toàn hợp tình, hợp lý.

6. Dịch vụ ly hôn của chúng tôi
Liên hệ Luật sư tư vấn Hôn nhân và gia đình để giúp bạn giảm bớt gánh nặng thủ tục ly hôn. HD Luât & Fdico có các dịch vụ tư vấn về ly hôn mà khách hàng quan tâm nhất:
– Tư vấn soạn thảo mẫu đơn ly hôn đơn phương
– Tư vấn soạn thảo mẫu đơn thuận tình ly hôn
– Tư vấn thủ tục ly hôn
– Tư vấn về phân chia tài sản
– Tư vấn giành quyền nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn
Để được tư vấn hỗ trợ nhanh chóng, kịp thời, liên hệ ngay Hotline – 0988.073.181.